Tìm kiếm Blog này

Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2011

Vấn đề 11: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
I. SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học. Việc phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại của Mác. Học thuyết Mác tìm ra lực lượng xã hội để thực hiện việc xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, tiến hành xây dựng xã hội mới-xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
a. Khái niệm giai cấp công nhân
Khi sử dụng khái niệm giai cấp công nhân, Mác và Ăngghen đã dùng một số thuật ngữ khác nhau để biểu hiện khái niệm đó như: giai cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện đại,giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp,…Mặc dù vậy, về cơ bản, những thuật ngữ này đều biểu thị một khái niệm thống nhất, đó là chỉ giai cấp công nhân hiện đại, con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại
Về cơ bản, có thể khái quát hai đặc trưng cơ bản của giai cấp này:
- Giai cấp công nhân là những tập đoàn người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành những công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại, ngày càng có trình độ xã hội hóa, quốc tế hóa cao. Đây là một đặc trưng cơ bản phân biệt người công nhân hiện đại với người thợ thủ công thời trung cổ, với những người thợ trong công trường thủ công. Giai cấp công
nhân có một quá trình phát triển từ những người thợ thủ công thời kỳ trung cổ đến những người thợ trong công trường thủ công và cuối cùng đến những người công nhân trong công nghiệp hiện đại. “Trong công trường thủ công và trong nghề nghiệp thủ công, người công nhân sử dụng công cụ của mình, còn trong công xưởng thì người công nhân phải phụ thuộc máy móc.”
Dưới chủ nghĩa tư bản, nền sản xuất đại công nghiệp ngày càng phát triển, máy móc ngày càng nhiều, sản xuất ngày càng có năng suất cao, làm cho
những người thợ thủ công bị phá sản, những người nông dân mất việc làm buộc phải gia nhập vào hàng ngũ công nhân. Vì vậy: “ tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp “, “ công nhân cũng là phát minh của thời đại mới, giống như máy móc vậy. Công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại
- Trong xã hội tư bản chủ nghĩa người công nhân không có tư liệu sản xuất buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để kiếm sống. Mác và Ăngghen đặc biệt chú ý phân tích đặc trưng này, vì nó chính là đặc trưng khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản
b. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền sản xuất hiện đại, lực lượng đại biểu cho sự phát triển của lực lượng sản xuất tiến bộ, đại biểu cho xu hướng phát triển của phương thức sản xuất tương lai; do vậy, về mặt khách quan nó là giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ mọi chế độ áp bức, bóc lột và xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
Mác và Ăngghen đã tập trung nghiên cứu làm rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, chỉ ra con đường và những biện pháp cần thiết để giai cấp công nhân hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình. Lênin chỉ rõ: “ điểm chủ yếu trong học thuyết Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân phải trải qua hai bước: bước thứ nhất, “ Giai cấp vô sản chiếm lấy chính quyền nhà nước và biến tư liệu sản xuất trước hết thành sở hữu nhà nước”, thứ hai “…giai cấp vô sản cũng tự thủ tiêu với tư cách là giai cấp vô sản, chính vì thế mà nó cũng xóa bỏ mọi sự phân biệt giai cấp và mọi đối kháng giai cấp, và cũng xóa bỏ nhà nước với tư cách nhà nước”
  Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải tập hợp được các tầng lớp nhân dân lao động xung quanh nó, tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng xóa bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới về mọi mặt từ kinh tế tới chính trị và văn hóa, tư tưởng.
Tiến lên một xã hội không còn giai cấp và thực hiện được nguyên tắc bình đẳng lý tưởng “ làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” như Mác dự báo là một quá trình khó khăn phức tạp, lâu dài. Trong quá trình tiến lên một xã hội như vậy giai cấp công nhân gặp vô cùng khó khăn, gặp phải sự chống đối quyết liệt của kẻ thù giai cấp, gặp phải tính tự phát của người sản xuất nhỏ,
Đặc điểm của giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.
Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng vì họ đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, phương thức sản xuất gắn liền với nền khoa học công nhiệp hiện đại; gia cấp công nhân có hệ tư tưởng tiên phong của thời đại ngày nay là tư tưởng Mác-Lênin mang tính cách mạng và khoa học. Chủ nghĩa Mác-Lênin được xây dựng trên cơ sở tiếp thu những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, những tri thức tiên tiến nhất của thời đại. Giai cấp công nhân không chỉ tiên phong trong lý luận mà còn tiên phong trong hành động, luôn luôn đi đầu trong moik phong trào cách mạng, bằng hành động tiên phong của mình mà lôi kéo các giai cấp, tầng lớp khác vào phong trào cách mạng.
Giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất.
Trong cuộc cách mạng tư sản, giai cấp tư sản chỉ có tinh thần cách mạng trong thời kỳ đấu tranh chống chế độ phong kiến, còn khi giai cấp này đã giành được chính quyền thì họ quay trở lại bóc lột giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, những giai cấp đã từng đi với giai cấp tư sản trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản. khác với giai cấp tư sản, giai cấp công nhân, con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp, lại bị giai cấp tư sản bóc lột nặng nề, có lợi ích cơ bản đối lập trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Điều kiện sống, điều kiện lao động trong chế độ tư bản chủ nghĩa đã chỉ cho họ thấy, họ chỉ có thể được giải phóng bằng cách giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Mác và Ăngghen đã chỉ rõ: “ trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng…
Các tầng lớp trung đẳng là những nhà tiểu công nghiệp, tiểu thương, thợ thủ công và nông dân, tất cả đều đấu tranh chống giai cấp tư sản để cứu lấy sự sống còn của họ với tính cách là những tầng lớp trung đẳng. cho nên họ không cách mạng mà bảo thủ “.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân không gắn với tư hữu, do vậy, họ cũng kiên định trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh chống chế độ áp bức, bóc lột, xóa bỏ chế độ tư hữu, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
Giai cấp công nhân lao động trong nền sản xuất đại công nghiệp với hệ thống sản xuất mang tính chất dây chuyền và nhịp độ làm việc khẩn trương, buộc giai cấp này phải tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động, cùng với cuộc sống đô thị đã tạo nên tính tổ chức, kỷ luật chặt chẽ của giai cấp công nhân.
Khi giai cấp công nhân tham gia vào các tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn, tham gia vào cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản cũng đòi hỏi giai cấp này phải có ý thức tổ chức kỷ luật chặt chẽ. Nhất là khi giai cấp công nhân được sự giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin, tổ chức ra đảng cộng sản thì ý thức tổ chức kỷ luật lại càng được nâng lên. Giai cấp công nhân không có ý thức tổ chức kỷ luật cao thì không thể giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản.
Giai cấp công nhân có bản chất quốc tế.
Chủ nghĩa Mac-Lênin cho rằng, giai cấp tư sản là một lực lượng quốc tế, giai cấp tư sản không chỉ bóc lột giai cấp công nhân ở chính nước họ mà còn bóc lột giai cấp công nhân ở các nước thuộc địa. Ngày nay, voiứ sự phát triển mạnh mẽ của lực lường sản xuất, sản xuất mang tính toàn cầu hóa. Tư bản của nước này có thể đầu tư sang nước khác là một xu hướng khách quan. Nhiều sản phẩm không phải do một nước sản xuất ra mà là kết quả lao động của nhiều quốc gia. Vì thế, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân không chỉ diễn ra đơn lẻ ở từng doanh nghiệp, ở mỗi quốc gia mà ngày càng phải có sự gắn bó giữa phong trào công nhân các nước. Có như vậy, phong trào công nhân mới có thể giành được thắng lợi. Mác và Ăngghen đã chỉ ra rằng: “cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc”. Sau này Lênin chỉ rõ: “…không có sự ủng hộ của cách mạng quốc tế thì thắng lợi của cách mạng vô sản không thể có được” vì “ tư bản là một lực lượng quốc tế”. Muốn thắng nó cần có sự liên minh quốc tế.
Vấn đề 12: Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

1. Nguyên nhân hình thành và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

a. Nguyên nhân hình thành của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

Ngay từ đầu thế kỷ 20, Lênin đã chỉ rõ: chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là khuynh hướng tất yếu. Sở dĩ Ông dự đoán như vậy là do Ông căn cứ vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đã đạt được vào thời kỳ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, xu hướng tiếp tục phát triển của lực lượng sản xuất thời gian tới, những hạn chế của quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, tác động của qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đối với sự phát triển nền sản xuất tư bản chủ nghĩa…dựa vào tư tưởng của Lênin, có thể chỉ ra được nguyên nhân dẫn đến sự hình thành của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

b. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một thiết chế và thể chế thống nhất nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản.

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thanh phát triển mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền (chủ nghĩa đế quốc), nó là sự thống nhất của ba quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò can thiệp của nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh kinh tế của độc quyền tư nhân với sức mạnh chính trị của nhà nước trong một thể thống nhất và bộ máy nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền
2. Những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
a. Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền nhà nước
Lênin đã từng nhấn mạnh rằng sự liên minh cá nhân của các ngân hàng với công nghiệp được bổ sung bằng sự liên minh cá nhân của ngân hàng và công nghiệp với chính phủ: “ hôm nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng; hôm nay là chủ ngân hàng, ngày mai là bộ trưởng”
Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện thông qua các hội chủ xí nghiệp mang những tên khác nhau. Các hội chủ xí nghiệp này trở thành lực lượng chính trị, kinh tế to lớn, là chỗ dựa cho chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
b. Sự hình thành và phát triển sở hữu nhà nước
Sở hữu độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư bản độc quyền có nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Nó biểu hiện không những ở chỗ sở hữu nhà nước tăng lên mà còn ở sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền tư nhân, hai loại sở hữu này đan kết với nhau trong quá trình tuần hoàn của tổng tư bản xã hội
c. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản
Một trong những hình thức biểu hiện quan trọng của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự tham gia của nhà nước tư sản vào việc điều tiết quá trình kinh tế. theo Lênin: “ Sự tập trung và quốc tế hóa của tư bản ngày càng có những qui mô rất lớn. Chủ nghĩa tư bản độc quyền biến thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước; do tình thế thúc bách nên trong nhiều nước đã phải thi hành việc điều tiết xã hội đối với sản xuất và phân phối
Các chính sách kinh tế của nhà nước tư sản là sự thể hiện rõ nét nhất sự điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Chúng bao gồm nhiều lĩnh vực như chính sách chống khủng hoảng chu kỳ, chống lạm phát, chính sách tăng trưởng kinh tế, chính sách xã hội, chính sách kinh tế đối ngoại. Các công cụ chủ yếu nhà nước tư sản dùng để điều tiết kinh tế và thực hiện các chính sách kinh tế là: ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ - tín dụng, các doanh nghiệp nhà nước, kế hoạch hóa hay chương trình hóa kinh tế và các công cụ hành chính - pháp lý.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét